Aller au contenu principal

Nissan


Nissan


Công ty Cổ phần Ô tô Nissan (日産自動車株式会社, Nissan Jidōsha Kabushiki-gaisha) (TYO: 7201, NASDAQ: NSANY) là một nhà sản xuất ô tô của Nhật Bản và là một trong những nhà sản xuất ô tô lớn nhất thế giới.

Lưu ý: nhà sản xuất xe tải và xe bus "Nissan Diesel" là một công ty độc lập với Công ty Cổ phần Ô tô Nissan.

Trụ sở chính của công ty này đặt tại khu Ginza, Chūō-ku, Tokyo. Theo dự kiến, trụ sở hiện nay sẽ bị tháo dỡ vào năm 2013 và Nissan dự định sẽ chuyển trụ sở về Yokohama, Kanagawa vào năm 2010. Công trình mới đã được bắt đầu xây dựng từ năm 2007. Năm 1999, Nissan liên kết với hãng xe Renault của Pháp. Nissan là một trong ba đối thủ Nhật (cùng với Toyota, Honda) hàng đầu của "3 đại gia" sản xuất xe hơi của Mỹ. Hiện tại, đây là nhà sản xuất xe ô tô lớn thứ ba của Nhật Bản.

Động cơ Nissan VQ đã được vào danh sách 10 động cơ tiên tiến nhất của tạp chí Ward's Auto World trong mười hai năm liên tiếp từ khi danh sách ra đời.

Giống như người anh em Renault, cách phát âm từ Nissan có sự khác biệt giữa từng thị trường. Tại Mỹ, nó được phát âm là /ˈniːsɑːn/, trong khi ở Anh /ˈnɪsən/. Và trong tiếng Nhật thì lại là nịt-xăng.

Lịch sử

Các thương hiệu

Hình ảnh

Liên kết

  • Nissan Global website Lưu trữ 2010-12-07 tại Wayback Machine

Tham khảo

Collection James Bond 007

Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Nissan by Wikipedia (Historical)


Megalopolis Expressway Trial


Megalopolis Expressway Trial


Megalopolis Trial Expressway (首都高速トライアル, Shuto kōsoku toraiaru) là tựa phim gốc của một loạt 6 bộ phim Nhật Bản, phim kể về những tay đua bất hợp pháp trên đường cao tốc Shuto, phát hành giữa năm 1988 và 1996. Một phiên bản tiếng Anh phụ đề phiên bản của loạt phim - đổi tên thành Freeway Speedway- được phát hành trên DVD ở Bắc Mỹ vào năm 2004 do thành công thương mại của các bộ phim Hollywood nổi tiếng như The Fast and The Furious ("trước khi có The Fast And The Furious, đã có Freeway Speedway" là một câu trích dẫn xuất hiện trên DVD thứ tư). Một phiên bản tái bản năm 2004 gồm 4 đĩa được thực hiện vào năm 2007, nó được đổi tên thành Tokyo Speedway: The Complete Collection. Mặc dù cũng có sẵn ở Hồng Kông, phiên bản DVD không được phát hành ở Nhật Bản vì bộ series vẫn bị cấm và tập cuối chưa được phát hành.

Bối cảnh

Lấy bối cảnh một trong những kỷ nguyên khét tiếng nhất của đua xe đường phố ở Nhật Bản, khi câu lạc bộ Mid Night thống trị và trở thành một trong những băng nhóm đua xe đường phố khét tiếng và đáng sợ hoặc được "kính trọng" nhất ở Nhật Bản. Trước khi họ bị cấm làm như vậy, các tạp chí xe hơi đưa tin về các cuộc đua bất hợp pháp, nhưng vào giữa những năm 1990, truyền thông phương Tây bắt đầu đưa tin về Bōsōzoku và vào những năm 2000, một loạt trò chơi điện tử đua xe đường phố nổi tiếng của Mỹ được đặt theo tên của họ, với tên Midnight Club. Bộ phim đầu tiên, do Nikkatsu sản xuất, đã bị cấm phát hành tại Nhật Bản trong rạp chiếu phim, do nội dung của nó. Khi tay đua kiêm cựu tay đua đường phố Keiichi Tsuchiya xuất hiện từ phần tiếp theo, nó đã áp dụng thông điệp "Nói không với những thể loại thi đấu, đua xe đường phố", vì thế tránh bị cấm. Bộ seires trở thành một phần bán tiểu sử về Keiichi, một phần về kinh nghiệm của anh ta khi là một hashiriya (thuật ngữ bản địa người Nhật: "tay đua đường phố") và khi anh ta giã từ tay đua đường phố để trở thành tay đua chuyên nghiệp. Loạt phim tiếp theo phần phim đầu tiên, được phát hành theo dòng V-Cinema của Công ty Toei, có nghĩa là tất cả chúng đều được phát hành trực tiếp thành video. Những bộ phim này được cho là đã ảnh hưởng đến các loạt phim nổi tiếng bao gồm loạt trò chơi điện tử loạt Ridge Racer và loạt trận Shutokō Battle, Need For Speed: Underground, cũng như các truyện tranh như Wangan Midnight. Nó cũng là nguồn cảm hứng cho phim Liệt Hỏa Truyền thuyết của điện ảnh Hồng Kông và các trò chơi điện tử phương Tây như loạt seires game Midnight Club cũng như các bộ phim Hollywood như The Fast and the Furious.

Tóm tắt nội dung

Megalopolis Expressway Trial (1988)

Các tay đua đường phố thách thức nhau vượt qua kỷ lục tốc độ hiện tại do tay đua F1 đang nắm giữ. Tuy nhiên, để phá được kỷ lục trên đường cao tốc Shuto, bạn cần phải có thêm “may mắn” bên cạnh động cơ độ mạnh mẽ và kỹ thuật lái cao, chuyên nghiệp. Và bạn phải có khả năng chinh phục "Đường đua của quỷ". Các tay đua đánh cược ước mơ và mạng sống của họ chống lại nhau trong một trò chơi tốc độ nguy hiểm. Phim đầu tiên của loạt phim và là phim duy nhất có cảnh sát đuổi theo xe.

Bộ phim này đã bị cấm chiếu tại các rạp ở Nhật do thông điệp của nó, tuy nhiên, bộ phim tiếp theo được phát hành video.

Về chiếc Nissan Skyline (R30) RS Turbo: Hai chiếc xe đã xuất hiện trên chiếc xe mà nhân vật chính, Rokuo, lái. Cả hai đều có hai tông màu bạc / đen. Ban đầu là một chiếc xe được điều chỉnh hoàn toàn được trang bị tuabin TD07 do cài đặt (thực tế, nó được trang bị tuabin TD08 cao hơn). Xưởng độ TBO phụ trách phần này. Chiếc xe này đã bị hư hỏng nặng trong một tai nạn khi đua tính giờ trên đường cao tốc. Thứ hai là chiếc xe mà Rokuo đã sử dụng khi quay trở lại đường cao tôc Shuto, và nó không phải là chiếc xe được sửa đổi bất hợp pháp vì đặc điểm kỹ thuật tăng cường nhờ điều chỉnh ROM trong cài đặt. Vì một số lý do, biểu tượng "4 VAN DOHC RS TURBO" không được gắn (một thuật ngữ RS turbo rõ ràng và chính hãng trước đây).

Megalopolis Expressway Trial 2 (1990)

Mở đầu phim, Keiichi Tsuchiya (Skyline GT-R (R32)) đang thử lốp trên đường đua. Yamanaka Takahiro (Silvia K's (S13)) phá kỷ lục đua tính giờ của người bạn thân Toshiro Junichi (Skyline RS-X (R30)). Junichi đã từ bỏ cuộc đua để kết hôn. Nhân vật phản diện Sawaki (Fairlady Z (Z32)) thách thức Taka tham gia một cuộc đua. Junichi can thiệp, ngăn Taka. Taka nhìn thấy Keiichi bên ngoài một phòng trưng bày Nissan và thách thức anh tham gia một cuộc đua. Keiichi nói rằng anh ấy không còn đua trên đường phố nữa, và anh ấy sẽ chỉ thách đấu với Taka trên một đường đua. Junichi sau đó đua Sawaki với điều kiện anh ta để Taka một mình. Junichi bị tai nạn và thiệt mạng trong cuộc đua này. Vị hôn thê của Junichi đã mua một chiếc Skyline GT-R (R32) như một món quà cưới, và tặng nó cho Taka, với điều kiện anh ta không bao giờ đua đường phố nữa. Taka tập luyện trong GT-R R32, nhận được sự hướng dẫn từ Keichii Tsuchiya. Tuy nhiên, Taka phá vỡ lời hứa với vị hôn thê của Junichi, anh ta cũng đua Sawaki, nhưng trong cuộc đua, thực tế Taka đã thắng nhưng bỏ cuộc giữa cuộc đua với Sawaki (Sawaki nắm chắc phần thắng trong tay), anh ta quyết định đua trên Shuto là vô giá trị. Bộ phim kết thúc với cảnh GT-R R32 của Keiichi và Taka đua nhau quanh một đường đua. Takahiro, vượt qua Tsuchiya, ở góc cuối cùng của cuộc đua, với Nozomi, góa phụ của Junichi, vẫy cờ ca rô khi họ băng qua vạch đích.

Silvia (S13): Bạc. Chiếc xe mà Taka đã đi phần mở đầu phim. Phá kỷ lục. Thời gian đua tính giờ trên đường cao tốc Shuto 4 phút 46 giây.

Skyline (R30RS-X): Đỏ / Đen. Junichi, Cựu kỷ lục gia. Thời gian đua tính giờ 4 phút 53 giây. Chiến đấu với Z32 thay vì Taka. Anh ấy chết trong một vụ tai nạn.

Skyline (BNR32) GT-R: Màu xám đen. Chiếc xe mà mà vợ mua tặng cho Junichi. Bây giờ giao lại cho Taka.

Fairlady Z (Z32): Xám đen (AT: Hộp số tự động). Buộc phải đẩy trận chiến tại Metropolitan Expressway cho Taka. Nó được sơn màu đỏ từ giữa phim.

Supra (MA70): Màu trắng. Xe được trang bị hộp số tự động. Một thành viên trong nhóm của chiếc xe đối thủ trên.

Megalopolis Expressway Trial 3 (1991)

Cựu tay đua đường phố kỷ lục gia Shuto, Kyōhei đã nghỉ đua đường phố và hiện thuộc về đội đua của Keiichi Tsuchiya. Một ngày nọ, khi đang đua vượt núi, một chiếc Toyota Supra (JZA70) màu đen ẩn trong đường hầm từ phía sau đến và thách thức Yūsuke (S13) trong một cuộc đua, nhưng Yūsuke không phải là đối thủ của Black Supra vô danh. Kyōhei vẫn bị ám ảnh bởi vụ tai nạn kinh hoàng xảy ra trên Đường cao tốc vài năm trước, khiến anh phải rời bỏ cuộc đua đường phố. Một ngày nọ khi đang giải tỏa cơn giận của mình trên vùng núi tuyết, anh và Tsuchiya đã chứng kiến ​​một tai nạn dẫn đến việc Tsuchiya (R32) phải chạy đua xuống núi tuyết để được giúp đỡ. Sau khi chứng kiến ​​điều này, Kyōhei yêu cầu Yūsuke bỏ đua đường phố, sau đó người này trả lời rằng đánh bại kỷ lục là điều duy nhất đối với anh ta. Khi Kyōhei nghe tin đối thủ cũ của mình, Yūsuke đã bị tai nạn trên đường cao tốc trong khi đua với chiếc Supra vô danh, khiến bản thân anh bị mù vĩnh viễn, Kyōhei (R32) quay trở lại Đường cao tốc Shuto cho một cuộc đua đường phố cuối cùng để trả thù cho Yūsuke. Đến cuối cuộc đua với Supra đen, Kyōsuke biết được rằng người thương vong trong vụ tai nạn lúc đầu là em gái của tay đua Supra, Miyuki và rút khỏi cuộc đua. Kyōhei đợi Supra đen và thề sẽ không bao giờ đua trên đường phố nữa, Supra đen cũng vậy. Sau khi Kyōhei quay trở lại ga ra đua xe, một người nào đó đã đưa cho anh một chiếc mũ bảo hiểm đua xe, đó là chủ ý của Tsuchiya. Cảnh cuối cho thấy Kyōhei trong chiếc xe Công thức 3000 số 82 đứng thứ 6 trong lần đầu ra mắt giải đua chuyên nghiệp.

Megalopolis Expressway Trial 4 (1992)

Một cậu bé tên là Keiichi, được chẩn đoán mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Chiếc xe yêu thích nhất của cậu nhỏ này là Skyline GT-R (BNR32). Ước muốn duy nhất của cậu bé, là trở thành một tay đua chuyên nghiệp, giống như thần tượng Keiichi Tsuchiya của cậu bé. Anh trai của cậu bé, Toshihiko không chỉ bán xe của mình (Silvia K's (S13)), mà còn cả xe của cha anh (1989 Honda Accord Inspire) để mua một chiếc GT-R R32 màu đỏ (BNR32). Toshihiko chọn chạy đua trên đường phố vì anh ấy biết anh trai Keiichi của mình sẽ không thể nhìn thấy nó khi anh ấy cố gắng trở thành tay đua chuyên nghiệp. Một ngày nọ, khi đang đi thăm trường đua, cậu bé tình cờ gặp Tsuchiya và được đưa đi nhờ xe. Khi tình trạng của em trai trở nên tồi tệ hơn, và trên giường bệnh, cậu bé bắt anh trai mình hứa sẽ trở thành một tay đua chuyên nghiệp, và đánh bại Tsuchiya trong một cuộc đua.

Trong phim, một số pha hành động đua xe diễn ra, bao gồm RX-7 (FC3S) màu trắng so với chiếc 180SX (RS13) màu vàng, cũng như chiếc Supra Twin Turbo R (JZA70) màu đen, bị đánh bại bởi chiếc GT-R màu đỏ (BNR32) vượt trội trong cuộc đua cự ly ngắn đường phố 0-400m (Zero-Yon) và làm bìa tạp chí độ xe mới nhất. Người đàn ông sở hữu RX-7 màu trắng (FC3S), Akira, sau đó đã hỏi liệu anh ta có bị Takahiro Yamanaka từ chối đua trên đường phố hay không và thách thức GT-R R32 (BNR32) đỏ để đua trên đường cao tốc Shuto, nói rằng 0-400m là quá bình thường, yêu cầu anh ấy tạo ra huyền thoại cho riêng mình, đồng nghĩa là đánh bại kỷ lục các tay đua trên cao tốc Shuto trước đó. Sau đó cả hai gặp tai nạn và phải đưa vào bệnh viện. Takahiro Yamanaka, từ phần 2, sẽ xuất hiện với tư cách khách mời đặc biệt, với tư cách là người thợ máy điều chỉnh những chiếc xe cho cuộc đua cuối cùng, và là người huấn luyện cho Toshihiko, chuẩn bị cho trận chiến sắp tới với Tsuchiya trên đường đua.

Chú thích:

  • 1991 Nissan Skyline (BNR32) GT-R màu đỏ. Chiếc xe của nhân vật chính: Toshihiko. Xe được trang bị 550HP (mã lực) RB26DETT, xe được nâng cấp và hiệu chỉnh bởi xưởng độ xe TBO.

Megalopolis Megalopolis Expressway Trial 5: Cuộc chiến cuối cùng (1993 - 1994)

Câu chuyện kể về tay đua đường phố Yusuke, người đã đánh bại nhiều tay đua khác nhau trên chiếc Mazda RX-7 (FC3S) màu trắng của mình. Sau đó, anh thách thức một tay đua khác tên là Miyajima trên chiếc Nissan Skyline GT-R R32 màu vàng, kết quả là Yusuke đã gây thiệt hại nặng động cơ cho chiếc FC3S và buộc phải tu sửa.

Với xu hướng nóng nảy của mình và khiến mối quan hệ của anh ấy trở nên căng thẳng với cả bạn gái Junko và người bạn thợ máy của anh ấy, anh ấy cũng cố gắng để Keiichi Tsuchiya đua với anh ấy nhưng từ chối vì anh ấy chỉ đua trên đường đua hơn là trên đường cao tốc.

Trên đường đi, anh mua một chiếc Mazda / ɛ̃fini RX-7 (FD3S) màu đỏ mới và sau đó tái đấu với Miyajima, người sau đó đã gặp phải một tai nạn trọng thương trong lúc qua mặt Yusuke, Cái chết của Miyajima không phải do Yusuke chủ ý gây tai nạn, do động cơ GT-R R32 của Miyajima trang bị phụ tùng độ xe hiệu suất cao vượt mức cho phép làm ảnh hưởng đến hệ thống xe, làm cho động cơ hoạt động quá công suất dẫn đến bị nổ động cơ và tai nạn. Bị vu khống vì đã vô tình gây tai nạn cho Miyajima, Yusuke tìm cách chuộc lỗi với Keiichi Tsuchiya, nhưng lại khiến anh ta khó chịu hơn nữa để chạy đua trên đường cao tốc dẫn đến một cuộc hỗn chiến. Cuối cùng Yusuke quyết định thay đổi cách suy nghĩ của mình và cuối cùng có cơ hội đua Keiichi trên đường đua.

Megalopolis Megalopolis Expressway Trial 6: TO THE MAX / Đỉnh điểm (1996)

Nhà vô địch Shuto Shikiba Tatsuya (R33 GT-R Đen tím) đến Osaka để thách đấu với nhà vô địch Osaka Kanjō Sendō Makoto (JZA70 Supra). Sendō bị tai nạn trong cuộc đua, xe bị hư hỏng nặng và phải nhập viện. Mở đầu, tại tháp Tsūtenkaku của Osaka. Tsuchiya Keiichi (NSX Type R) nói với người thợ máy Kazuki (cũng là bạn của Shikiba) rằng anh phải từ bỏ đua xe đường phố. Kazuki yêu cầu Shikiba đua lần cuối.

Hai tháng trôi qua. Sendō rời bệnh viện trên chiếc Toyota JZA80 Supra Turbo RZ mới của mình để tìm Shikiba ở Tokyo. Shikiba đã từ bỏ đua xe và dành thời gian ngắm nhìn chiếc vỏ bị hỏng của chiếc R33 GT-R của Kazuki. Có vẻ như Kazuki đã thiệt mạng trong cuộc đua cuối cùng của họ (do xe Kazuki bị mất lái, không kiểm soát được tốc độ). Sendo tìm thấy Shikiba trong một ga-ra ở gần sân bay, nhưng Shikiba sẽ không đua với anh ta, trao cho anh ta một vé Akira Sudō để đền bù. Các buổi biểu diễn của Akira Sudō xen kẽ với một số cuộc đua / đối thoại. Shikiba chấp nhận một thử thách cuối cùng từ một người lái xe Nissan Z32 300ZX, người cũng vừa mới ra viện. Khi Shikiba đi qua nơi Kazuki bị gặp nạn, anh ấy không thể hoàn thành cuộc đua, và lái xe để xem lại GT-R R33 của Kazuki. Anh ta tìm thấy Tsuchiya ở đó, người đã chỉ trích anh ta một cách mạnh mẽ, và thách thức anh ta chạy trên đường đua. Anh ấy chạy đua nhưng không thể sánh được với Tsuchiya. Tsuchiya nói với anh ấy rằng đua đường phố là vô ích, và nếu anh ấy không rèn luyện trên đường đua, anh ấy không thích hợp với tay lái. Shikiba tức giận đến chỗ đua đổ đèo, và bị mất kiểm soát tay lái. Hồi tưởng về cái chết của Kazuki (R33 GT-R phát nổ). Shikiba cuối cùng cũng trở về nhà hai ngày sau cuộc đua để tìm Sendo ở với em gái mình. Họ có một cuộc chiến tay đôi, Shikiba bỏ đi (do Shikiba chưa tìm được câu trả lời cho riêng mình).

Hồi tưởng cho thấy R33 GT-R của Shikiba ban đầu chủ sở hữu là Kazuki, Shikiba (sở hữu chiếc Toyota SW20 MR2 TRD 2000GT trắng kim loại) đua và thắng Kazuki, sau đó xe của Kazuki (GT-R R33 Đen tím) sang chủ cho Shikiba trong một cuộc đua vào lần gặp đầu tiên của họ. Kazuki ấn tượng đến mức anh ấy đã nhờ Shikiba giúp tạo ra một huyền thoại bằng cách sử dụng GT-R (dù sang chủ cho Shikiba, nhưng Kazuki vẫn hiệu chỉnh GT-R cho Shikiba), đánh bại tất cả các tay đua trên các con đường phố khắp Nhật Bản, sau đó chuyển sang đua xe chuyên nghiệp trên đường đua quốc tế, với Kazuki là người điều chỉnh / độ xe. Hồi tưởng kết thúc. Bạn gái mất của Kazuki, Kaoru, quấy rối Shikiba trên bến tàu. Trong khi đó, Sendō thách thức và đánh bại nhà vô địch mới 300ZX. Em gái của Shikiba nói với Kaoru rằng ước mơ của Kazuki vẫn rất quan trọng. Kaoru tìm thấy Shikiba đang lau gần GT-R của Kazuki và gọi anh ta là kẻ nhát gan vì đã từ bỏ ước mơ của Kazuki. Cô ấy đưa cho anh ấy chip ROM điều chỉnh mà Kazuki đã làm trước khi anh ấy mất. Shikiba nói rằng anh ấy sẽ đua trên cao tốc Shuto một lần nữa. Anh ta thách thức Sendō. Shikiba và Kaoru chuẩn bị GT-R R33. Sendo và em gái Shikiba chuẩn bị cho Supra JZA80 Turbo. Trong cuộc đua, Shikiba nhận thấy chiếc xe có ít sức mạnh hơn. Cuối cùng, anh ấy nhận ra dải công suất đã tăng cao hơn nên điều chỉnh phù hợp với cách lái của mình và giành chiến thắng.

Ngày hôm sau, anh quay trở lại trường đua để tìm Kaoru và Tsuchiya. Trong khi ở đó, Tsuchiya đề nghị Shikiba một cuộc đua khác, nhưng từ chối, nói rằng anh ấy đã đua với anh ấy, và biết nó như thế nào khi đua trên đường đua. Sau đó, anh ấy đưa cho Kaoru chìa khóa GT-R R33 và nói rằng anh ấy sẽ không từ bỏ ước mơ của Kazuki. GT-R là giấc mơ của Kazuki, anh ấy cảm thấy nó nên có với Kaoru. Shikiba, chuẩn bị rời đi, nhưng Tsuchiya đã thách thức anh lần nữa. Sendō và em gái Shikiba lần lượt lên xem. Rõ ràng là em gái của Shikiba hiện đang quan tâm đến Sendō. Tsuchiya cho Shikiba mượn một chiếc NSX khác, và bộ phim kết thúc với cảnh 2 chiếc NSX đua vui vẻ với nhau trên đường đua.

Đóng thế

Các pha nguy hiểm trong cảnh rượt đuổi của cảnh sát trong phần phim đầu tiên được thực hiện bởi chuyên gia đóng thế, Takahashi Racing.

Vào thời điểm đó, màn đóng thế cảnh đua trong phần phim thứ hai được coi là màn đóng thế nguy hiểm nhất từng được thực hiện.

Tham khảo

Collection James Bond 007


Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Megalopolis Expressway Trial by Wikipedia (Historical)


Godzilla (định hướng)


Godzilla (định hướng)


Godzilla, còn được gọi là Gojira, là tên của một con kaiju khổng lồ hư cấu.

Godzilla cũng có thể đề cập đến:

Phim điện ảnh

  • Godzilla, một thương hiệu truyền thông thuộc sở hữu của Toho đã được nhượng quyền thương mại toàn cầu
    • Godzilla (1954), còn được gọi là "Gojira" và là bộ phim đầu tiên trong loạt phim
    • The Return of Godzilla (1984), được phát hành tại Nhật Bản với tên gọi "Godzilla" và là bộ phim thứ 16 trong loạt phim
    • Godzilla (1985), phiên bản chuyển thể tiếng Anh của bộ phim The Return of Godzilla (1984)
    • Godzilla (1998), phim điện ảnh do TriStar Pictures sản xuất
    • Godzilla (2000), còn được gọi là "Godzilla 2000: Millennium" và là bộ phim thứ 23 trong loạt phim
    • Godzilla (2014), phim điện ảnh do Legendary Pictures sản xuất

Phim truyền hình

  • Godzilla, phim hoạt họa nhiều tập do Hanna-Barbera sản xuất, được phát sóng trên NBC năm 1978–1979
  • Godzilla Island, phim truyền hình dành cho trẻ em do Nhật Bản sản xuất, được phát sóng năm 1997–1998
  • Godzilla: The Series, phim hoạt họa nhiều tập do Mỹ-Nhật hợp tác sản xuất, được phát sóng trên Fox Kids năm 1998–2000

Trò chơi điện tử

  • Godzilla (trò chơi năm 1983)
  • Godzilla (Game Boy)
  • Godzilla (trò chơi năm 2014)

Truyện tranh và tiểu thuyết

  • Godzilla (truyện tranh), một bộ truyện tranh dựa trên các bộ phim, ra mắt từ những năm 1950
  • Godzilla, một loạt tiểu thuyết dành cho trẻ em của tác giả Scott Ciencin, ra mắt từ năm 1996
  • Godzilla, một loạt tiểu thuyết dựa trên các nhân vật trong loạt phim của tác giả Marc Cerasini, ra mắt từ năm 1996

Godzilla Rock

  • Godzilla Rock (Oga), một kiến ​​tạo tự nhiên nằm ở Oga, Akita, Nhật Bản
  • Godzilla Rock (Suzu), một kiến ​​tạo tự nhiên nằm ở Suzu, Ishikawa, Nhật Bản
  • Godzilla Rock (Shari), một kiến ​​tạo tự nhiên nằm ở Shari, Hokkaido, Nhật Bản
  • Godzilla Rock (Ōshima, Tokyo), một kiến ​​tạo tự nhiên nằm ở Izu Ōshima, Nhật Bản
Collection James Bond 007

Âm nhạc

  • Godzilla, bài hát của Blue Öyster Cult năm 1977
  • Godzilla, bài hát của Eminem năm 2020
  • Godzilla!", bài hát của The Creatures năm 2003
  • Godzilla, bài hát nằm trong album Dimetrodon của The Doubleclicks năm 2014
  • Gojira (ban nhạc), một ban nhạc heavy metal của Pháp
  • Godzilla, đĩa mở rộng của ban nhạc Fu Manchu năm 1997
  • Godzilla, album của rapper Yukmouth năm 2003
  • Godzilla Entertainment, một hãng thu âm do rapper Yukmouth thành lập năm 2003
  • Godzilla (ca sĩ) (1988–2019), ca sĩ người Tanzania

Cách sử dụng khác

  • Dakosaurus andiniensis, một loài cá sấu biển đã tuyệt chủng
  • Godzillius robustus, một loài thuộc lớp động vật giáp xác remiped, được phát hiện bởi Frederick Schram
  • Gojirasaurus, một loài khủng long tồn tại ở kỷ Trias
  • Godzilla Asian American Arts Network
  • Godzillatron, một bảng tỷ số được sử dụng tại Đại học Texas
  • Godzilla Game, một trò chơi cờ bàn của Mattel năm 1978
  • Godzilla, một con quái vật hư cấu xuất hiện trong trò chơi trực tuyến Rappelz
  • Matsui Hideki, một cầu thủ bóng chày Nhật Bản có biệt danh phổ biến "Godzilla"
  • Nissan Skyline GT-R và GT-R, hai siêu xe của Nhật Bản có biệt danh "Godzilla"
  • Godzilla, một miệng phun thủy nhiệt nằm ở Thái Bình Dương, được đặt tên bởi các nhà địa chất biển

Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Godzilla (định hướng) by Wikipedia (Historical)


Need for Speed: Underground


Need for Speed: Underground


Need for Speed: Underground (NFSU) là một trò chơi điện tử đua xe và là trò chơi thứ 7 của dòng game Need for Speed do EA Black Box phát triển và do Electronic Arts phát hành vào năm 2003.

Điểm đáng chú ý ở Undergroud là sự nhấn mạnh vào văn hoá độ xe cùng chế độ Career với một cốt truyện rõ ràng. Tất cả các cuộc đua đều diễn ra trong một thành phố hiện đại vào buổi tối. Nổi bật ở Underground là những chiếc xe đua đường phố của Nhật Bản chứ không phải là các siêu xe. Underground thu gặt nhiều thành công về thương mại và là nguồn cảm hứng cho trò chơi tiếp theo trong dòng game, Need for Speed: Underground 2.

Need for Speed: Underground được phát hành cho các hệ máy Nintendo GameCube, PlayStation 2, Xbox, Microsoft Windows và Game Boy Advance.

Cốt truyện

Người chơi ngay lập tức tham gia vào một cuộc đua nhiều vòng với một chiếc xe đã được độ: Acura Integra Type R và dễ dàng chiến thắng trước khi bị Samantha đánh thức khỏi giấc mơ ban ngày của mình.

Samantha là một người bạn của người chơi. Trong trò chơi, cô hướng dẫn người chơi tham gia những cuộc đua, giới thiệu mọi người và tạo ra những nét mới trên chiếc xe của người chơi. Eddie (cùng với chiếc xe Nissan Skyline R34 màu cam) là thủ lĩnh của Eastsiders và hiện tại đang là tay đua số một trên đường phố, cùng với bạn gái của mình - Melissa.

Thời gian trôi qua, người chơi lần lượt đánh bại các đối thủ và chiến thắng các cuộc đua. Người chơi được giới thiệu với TJ, người đã hứa sẽ cung cấp các nâng cấp nếu người chơi đánh bại được những thách thức về thời gian. Samantha cũng làm tương tự, nhưng thay vào những nâng cấp thì sẽ là những thay đổi về diện mạo bên ngoài.

Những chiến thắng liên tiếp của người chơi lại không làm cho Eddie ấn tượng. Đầu tiên, Eddie chế giễu khả năng của người chơi, nói rằng người chơi còn lâu mới có thể chinh phục khu vực của hắn. Sau lần đó, người chơi gây dựng đủ tăm tiếng và ảnh hưởng khiến Eddie không thể làm ngơ, vì vậy hắn đã thách người chơi đánh bại Samantha bằng một cuộc đua trước khi có thể đấu với hắn, và sự sẵn sàng của người chơi đã làm cho Samantha tức điên lên. Samantha đã nâng cấp động cơ chiếc Civic của cô nhằm cố gắng đánh bại người chơi, tuy nhiên sau đó cô đã thất bại. Sau cuộc đua, Eddie đã thu hồi chiếc Civic của cô.

Khi người chơi tiến gần đến vị trí số 1, Eddie một lần nữa cố gắng tống khứ đối thủ của mình. Cùng một lúc, người chơi nhìn thấy TJ trong chiếc xe của Samantha. Người chơi giành được chiến thắng trong cuộc đua nhiều vòng sau đó và trao trả lại chiếc xe cho Samantha, bù lại, cô cho phép người chơi lựa chọn một bộ thân xe cho chiếc xe của mình.

Sau đoạn đó, Eddie thách thức người chơi và bị thua cuộc. Trước khi có thể ăn mừng, một nhân vật bí ẩn lái một chiếc Nissan 350Z màu bạc thách đấu người chơi bằng một cuộc đua vòng có tên Market Street. Sau khi bị người chơi đánh bại, nhân vật bí ẩn đó đã tiết lộ mình là Melissa, bạn gái của Eddie. Sự kiện này đã đưa người chơi trở thành tay đua số một trong hội đua xe ngầm của thành phố.

Cách chơi

Circut là cuộc đua tiêu chuẩn, trong đó người chơi sẽ đua cùng tối đa 4 chiếc xe khác trên một đường đua trong một vòng hoặc nhiều hơn. Trong bốn cuộc đua cuối cùng ở chế độ Underground, người chơi sẽ chỉ đấu với một đối thủ nhưng cuộc đua sẽ lên tới bảy vòng.

Knockout Mode tương tự như các trò chơi Need for Speed trước, trong đó, ở mỗi vòng, tay đua nào vượt qua vạch đích cuối cùng sẽ bị loại, và tay đua duy nhất còn lại sẽ giành chiến thắng.

Sprint là một biến thể của chế độ Circut, trong đó các tay đua sẽ đua thẳng từ vạch xuất phát tới đích (vạch xuất phát và đích không trùng nhau) chứ không phải đua theo vòng (vạch xuất phát và đích trùng nhau). Độ dài đường đua ở chế độ này rõ ràng là ngắn hơn so với chế độ Circut, vì vậy người chơi phải hết sức cẩn thận nếu không muốn bị thất bại.

Drift (lết bánh) là một chế độ khá khó và đòi hỏi kỹ thuật cao. Chế độ này sử dụng những đường đua vòng, yêu cầu người chơi phải tích điểm bằng cách điều khiển chiếc xe của mình lết bánh qua những khúc cua với tốc độ cao - tốc độ càng cao, điểm giành được càng nhiều. Và tất nhiên, khi hoàn thành các vòng đua, người chơi nào có tổng số điểm cao nhất sẽ giành chiến thắng.

Trong khi đang đua, điểm thưởng sẽ được cộng vào tổng điểm của tay đua nếu tay đua đó lết bánh ở rìa đường, có góc lết bánh lớn hoặc lết bánh với tốc độ cao. Mỗi pha lết bánh sẽ được tính điểm riêng và được cộng vào điểm tổng, tuy nhiên nếu xe của người chơi bị đụng phải tường ở hai bên đường khi số điểm của mỗi pha lết bánh chưa được cộng vào thì số điểm đó sẽ bị biến mất (không được cộng).

Drift là chế độ đua mà thời gian hoàn thành các vòng đua không phải là vấn đề. Người chơi có thể hoàn thành vòng đua lết bánh trong thời gian tuỳ ý. Đây là một trong những lý do mà ni-trơ oxit không xuất hiện trong chế độ này.

Drag racing là chế độ đua đòi hỏi kỹ thuật cao thứ hai trong trò chơi. Trong chế độ này, người chơi sẽ đối đầu với ba tay đua khác trên một đường đua thẳng và tương đối ngắn. Tay đua nào về đích trước sẽ giành chiến thắng. Điểm đặc biệt là người chơi phải căn thời điểm chính xác để lên số xe một cách hoàn hảo và sử dụng ni-trơ oxit để vượt qua các tay đua khác. Một bảng tốc độ sẽ hiện lên ở bên trái màn hình nhằm báo hiệu cho người chơi thời điểm chính xác để lên số. Việc đổi làn đường của xe đã được máy tính phụ trách, và nhiệm vụ của người chơi là phải tập trung vào việc đưa chiếc xe của mình đến tốc độ tối đa.

Có hai trường hợp thường hay dẫn đến thất bại của các tay đua. Thứ nhất là đâm phải các vật thể trên đường (một chiếc xe chẳng hạn), khi đó chiếc xe của tay đua sẽ bị "Totaled". Vì vậy trong chế độ Drag có rất nhiều xe và chướng ngại trên đường. Thứ hai là việc động cơ bị kiệt quệ do kéo dài hết cỡ vạch màu đỏ ở bảng tốc độ khiến cho hậu quả là động cơ bị nóng quá mức.

Độ xe

Trong bảng chọn "Car Customization", chiếc xe có thể được thay đổi với những nâng cấp về máy, các phần xe (thân xe, bánh xe,...) và màu sơn cùng những hoa văn và hoạ tiết trang trí.

Khả năng của chiếc xe của người chơi có thể được gia tăng bằng những nâng cấp về máy. Nâng cấp có thể được áp dụng với động cơ, lốp xe, bộ truyền động, bộ giảm xóc,... cũng như với bộ ni-trơ oxit và bộ nạp tốc độ. Bên cạnh đó người chơi còn có thể giảm bớt khối lượng chiếc xe. Những nâng cấp này chỉ được mở khoá khi người chơi chiến thắng các cuộc đua.

Đón nhận và thương mại

Nói chung giới phê bình đều thích trò chơi này, mặc cho những lời chê bai về những đường đua thường hay lặp lại, trí tuệ nhân tạo không cân bằng, sự điều chỉnh không thực tế, sử dụng quá nhiều những chiếc xe chướng ngại trên đường, thiếu chế độ chơi trực tuyến trên phiên bản dành cho GameCube và Xbox, và thiếu chế độ đi rong (Free Roam). Hầu hết những lời chê bai đều đến từ phía người chơi.

Tuy vậy, IGN đã cho phiên bản PlayStation 2 số điểm 8,9/10.

Underground đã bán được 15 triệu bản trên toàn thế giới.

Âm nhạc

Chú thích

Collection James Bond 007

Tham khảo

  • Website chính thức
  • Need for Speed: Underground trên MobyGames
  • Video và hình ảnh

Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Need for Speed: Underground by Wikipedia (Historical)


2 Fast 2 Furious


2 Fast 2 Furious


2 Fast 2 Furious là một phim hành động năm 2003 của đạo diễn John Singleton và được viết bởi Michael Brandt và Derek Haas. Là phần tiếp theo độc lập cho The Fast and the Furious (2001), đây là phần thứ hai trong Fast & Furious nhượng quyền thương mại và các ngôi sao Paul Walker, Tyrese Gibson, Eva Mendes, Cole Hauser, Chris "Ludacris" Bridges và James Remar. 2 Fast 2 Furious theo chân Brian O'Conner (Walker) và Roman Pearce (Gibson), những người hoạt động bí mật cho Hoa Kỳ. Dịch vụ Hải quan để bắt trùm ma túy Carter Verone (Hauser) để đổi lấy việc xóa án tích của họ.

Diễn viên

  • Paul Walker trong vai Brian O'Conner, một cựu Los Angeles Cop, người đã trở thành kẻ chạy trốn sau khi để Dominic Toretto trốn thoát trong phần phim trước, người hiện đã định cư ở Miami. Anh lái chiếc Nissan Skyline GTR R34 đời 1999 và chiếc Mitsubishi Lancer Evolution VII đời 2002.
  • Tyrese Gibson trong vai Roman Pearce, người bạn thời niên thiếu của Brian, người đang bị quản thúc tại gia sau thời gian ngồi tù mà anh vẫn đổ lỗi cho Brian. Anh lái chiếc Mitsubishi Eclipse Spyder GTS đời 2003.
  • Eva Mendes trong vai Monica Fuentes, một nhân viên Hải quan Hoa Kỳ làm việc bí mật với tư cách là phụ tá của Carter Verone và mối tình của Brian.
  • Cole Hauser trong vai Carter Verone, một trùm ma túy Người Argentina tàn nhẫn mà tổ chức của Sở Tùy chỉnh đã cử Monica và sau đó là Brian và Roman xâm nhập.
  • Chris "Ludacris" Bridges trong vai Tej Parker, người dẫn chương trình cuộc đua và là bạn của Brian. Anh ta sắp xếp các giải đua đường phố có tỷ lệ cược cao trong đó Brian thường đua và giành chiến thắng.
  • Devon Aoki trong vai Suki, bạn của Brian, Tej và Jimmy. Cô ấy là tay đua nữ được nêu tên duy nhất trong phim và đội của cô ấy hoàn toàn là phụ nữ. Cô ấy thường lái chiếc xe tùy chỉnh màu hồng nóng Honda S2000.
  • James Remar trong vai Đặc vụ Markham, một nhân viên hải quan Hoa Kỳ phụ trách chiến dịch chống lại Verone và cấp trên của Monica.
  • Thom Barry trong vai Đặc vụ Bilkins, người mà Brian gặp lần đầu trong quá trình làm việc bí mật trong bộ phim đầu tiên, người đã đến Miami để giám sát tình hình. Như trước đây, anh luôn tôn trọng kỹ năng lái xe và đua đường phố của O'Conner.
  • Edward Finlay trong vai Đặc vụ Dunn, một nhân viên Hải quan Hoa Kỳ, người là số hai của Markham trong hoạt động.
  • Mark Boone Junior trong vai Thám tử Whitworth, một thám tử Miami, người bị Verone buộc phải giao cho Pearce và O'Conner một cửa sổ để giao gói hàng của anh ta.
  • Mo Gallini trong vai Enrique, tay sai hói của Verone.
  • Roberto Sanchez trong vai Roberto, tay sai của Verone và đồng đội của Enrique.
  • MC Jin trong vai Jimmy, một thợ cơ khí làm việc cho Tej và là bạn thân của Brian.
  • Amaury Nolasco trong vai Orange Julius, một tay đua đường phố lái chiếc Mazda RX-7 màu cam.
  • Michael Ealy trong vai Slap Jack, một tay đua đường phố lái chiếc Toyota Supra vàng.
  • John Cenatiempo trong vai Korpi, một tay đua đường phố lái chiếc 1969 Chevrolet Camaro Yenko S/C.
  • Eric Etebari trong vai Darden, bạn của Korpi, người lái chiếc 1970 Dodge Challenger.

Nhà sản xuất Neal H. Moritz xuất hiện khách mời trong vai cảnh sát trong một cảnh rượt đuổi.

Tham khảo

Liên kết ngoài

  • Website chính thức
  • 2 Fast 2 Furious trên Internet Movie Database

Text submitted to CC-BY-SA license. Source: 2 Fast 2 Furious by Wikipedia (Historical)


Carlos Ghosn


Carlos Ghosn


Carlos Ghosn, KBE (Tiếng Ả Rập: كارلوس غصن; sinh 9 tháng 3 1954), sinh ra tại Brazil, là một doanh nhân người Pháp gốc Liban. Ông hiện là tổng giám đốc (CEO) của Renault và Nissan. Ông được biết đến nhiều với thành công khi chuyển sang Nissan. Với tư cách là người lĩnh trọng trách của một trong những công ty lớn nhất Nhật Bản, ông đã rất thành công. Ông được Tạp chí Fortune phiên bản châu Á bầu chọn là Người đàn ông của năm 2003, ngoài ra ông cũng làm việc cho Alcoa, Sony và IBM. Ghosn trở thành tổng giám đốc của Renault, một đồng minh và cổ đông của Nissan, vào năm 2005, kế nhiệm Louis Schweitzer, tuy vậy ông vẫn giữ chức tổng giám đốc của cả Nissan.

Ghosn thôi giữ chức CEO của Nissan vào ngày 1 tháng 4 năm 2017, trong khi đó vẫn là chủ tịch của công ty. Ông đã bị bắt tại sân bay Haneda vào ngày 19 tháng 11 năm 2018, với cáo buộc báo cáo dưới mức thu nhập của anh ta và lạm dụng tài sản của công ty. Vào ngày 22 tháng 11 năm 2018, hội đồng quản trị của công ty đã đưa ra quyết định nhất trí miễn nhiệm Ghosn làm chủ tịch của Nissan, tiếp theo là hội đồng quản trị của Mitsubishi Motors vào ngày 26 tháng 11 năm 2018. Trong thời gian này, Renault và chính phủ Pháp đã tiếp tục hỗ trợ ông, cho rằng ông vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội.

Tham khảo

Liên kết ngoài

  • Renault-Nissan emerges as global giant under Ghosn, by Jorn Madslien, BBC News
  • Carlos Ghosn Revealed on CNN.com Lưu trữ 2007-12-27 tại Wayback Machine
  • Detroit News "Nissan CEO: The making of a superstar"
  • Business Week "A Spin with Carlos Ghosn"

Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Carlos Ghosn by Wikipedia (Historical)


Phân loại ô tô


Phân loại ô tô


Việc phân loại ô tô thông thường dựa vào cỡ thân xe và dung tích khí thải động cơ. Những quốc gia có nền công nghiệp ô tô phát triển lớn là Nhật Bản, Hoa Kỳ, và các nước châu Âu đưa ra các cách phân loại riêng. Ở châu Âu, trừ Anh, các nước trong EU có cùng cách phân loại.

Hoa Kỳ

Ở Hoa Kỳ, người ta phân ô tô thành các loại sau:

Theo kích thước khung xe

  • Xe subcompact hay xe mini (subcompact car): Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đưa ra định nghĩa xe subcompact là xe có khoang hành khách cộng khoang hành lý rộng từ 85 đến 99 feet khối (tức là từ khoảng 2,4 đến 2,8 m³), thường là xe dẫn động cầu trước. Ví dụ về loại này là: Ford Fiesta, Ford Figo, Chevrolet Spark, KIA Morning.
  • Xe hạng nhỏ (compact car): ví dụ, Ford Focus, Chevrolet Cruze. EPA định nghĩa xe compact là xe có khoang hành khách cộng khoang hành lý rộng từ 100 đến 109 feet khối (2,8-3,1 m³), thường là xe dẫn động cầu trước.
  • Xe hạng trung (mid-size car): là loại xe có khoang hành khách cộng khoang hành lý rộng từ 110 đến 119 feet khối (3,11-3,37 m³). Ví dụ: Ford Mondeo, Chevrolet Malibu, Lincoln LS, Cadillac CTS.
  • Xe hạng lớn (full-size car hoặc large car): là xe có khoang hành khách cộng khoang hành lý rộng trên 3,3 m³. Ví dụ: Ford Crown Victoria, Chrysler 300C, Chevrolet Impala, Lincoln Town Car, Cadillac DTS.

Theo kiểu khung xe và động cơ

  • Xe thể thao (sports car): thường là xe nhỏ, 2 ghế ngồi, tốc độ cao. Ví dụ: Chevrolet Corvette, Porsche 911.
  • Xe van hạng nhỏ, còn gọi là xe gia đình đa dụng (Multi Purpose Vehicle): xe van loại nhỏ, ví dụ, Chrysler Town and Country, Chrysler PT Cruiser, Ford Galaxy, Ford C-MAX, Chrysler Voyager.
  • Xe van hạng lớn (full-size van): là loại xe có thân lớn có thể chờ được nhiều hành khách hoặc hàng hóa, thường có dẫn động cầu sau, thân và khung rời, động cơ đặt ở đầu xe, chẳng hạn như Ford E-Series và Chevrolet Express. Trước đây, có loại xe van nhỏ (compact van), nhưng nay ít sản xuất ở Hoa Kỳ.
  • Xe thể thao đa dụng mini (Mini SUV): thường là loại SUV có khung và thân liền, có một vài tính năng của xe SUV (chủ yếu là hệ truyền động 4 bánh). Ví dụ: Jeep Wrangler.
  • Xe thể thao đa dụng hạng nhỏ (compact SUV): loại xe SUV có khung và thân liền và chiều dài thường trong khoảng 4,25 đến 4,60 mét. Ví dụ: Chevrolet S-10 Blazer, Ford Bronco II, Jeep Cherokee (XJ), Ford Escape, Chevy Equinox, Jeep Liberty
  • Xe thể thao đa dụng hạng trung (mid-size SUV): Ford Explorer, Jeep Grand Cherokee, Chevrolet Tahoe
  • Xe thể thao đa dụng hạng lớn (Full-size SUV): đây là xe SUV với đầy đủ tính năng, thân và khung xe rời. Ví dụ: Cadillac Escalade EXT, Chevrolet Suburban, Jeep Commander
  • Xe bán tải hạng nhỏ (Mini pickup truck, compact pickup truck, hoặc đơn giản là pickup): xe tải nhỏ, có khoang lái tiện lợi, thường dùng động cơ I4, I5, I6 hay V6, khoang hành lý phía sau không có nắp, chẳng hạn Ford Ranger
  • Xe bán tải hạng trung (Mid-size pickup truck): xe bán tải thường dùng động cơ V6, như Toyota Tacoma, Dodge Dakota, Hummer H3T
  • Xe bán tải hạng nặng (Full-size pickup truck): thường có trọng tải trên 1,5 tấn, động cơ phía trước, dùng trục dẫn động với hệ dẫn động cầu sau hoặc truyền động 4 bánh, khoang hành lý phía sau có thể có nắp hoặc không. Ví dụ: Chevrolet Silverado (GMC Sierra), Dodge Ram, Ford F-Series
  • Xe bán tải hạng đặc biệt (Full-size heavy duty pickup truck): như Chevrolet Silverado, Ford Super Duty

Ngoài ra còn có các loại:

  • Xe crossover (CUV): loại lai giữa sedan và SUV, thân và khung liền, khoang hành khách rộng có thể tới 8 ghế, 4 cửa bên, 1 cửa sau, hệ truyền động 4 bánh. Ví dụ: Chevrolet Captiva, Chevrolet Equinox, Ford Edge. Trên thực tế thì không có một ranh giới nào cụ thể để phân biệt rõ ràng được đâu là dòng xe Crossover và đâu là SUV. Mặc dù có dáng giống với các xe thuộc dòng SUV nhưng Crossover lại lái giống với các loại xe ô tô thông thường. Sở dĩ có điều này vì SUV có cấu trúc thân rời, sử dụng khung gầm của xe tải. Dòng xe Crossover cũng có những ưu điểm giống với các xe SUV như khả năng chứa đồ, không gian buồng lái rộng rãi, sự tiện nghi, mức độ tiết kiệm nhiên liệu. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của nó so với dòng SUV là sức mạnh động cơ yếu hơn do trọng lượng xe nhẹ hơn. Vậy nhưng, Crossover vẫn là sự lựa chọn tốt cho các "phượt thủ".
  • Xe tải thể thao đa dụng (Sport utility truck, SUT):
  • Xe buýt nhỏ (mini bus): lai giữa minivan và bus, có từ 8 đến 30 ghế. Loại này lại gồm hai loại là microbus thường dài không quá 8 mét, và loại midibus trên 8 mét nhưng không quá 11 mét.
  • Xe buýt lớn (full-size bus, large-size bus, plenibus): có nhiều ghế, dài trên 11 mét.

Ở Nhật Bản

Theo pháp luật

  • Xe hạng nhẹ: thân dài dưới 3,4 mét, rộng dưới 1,48 mét, cao dưới 2 mét, dung tích khí thải của động cơ dưới 660 cc. Loại này thường được cấp biển số màu vàng chữ đen.
  • Xe khách: thường mang biển số màu trắng chữ đen: gồm hai loại
    • Hạng nhỏ: dưới 2000 cc, dài dưới 4,7 m, rộng dưới 1,7 m, cao dưới 2 m. Biển số có ghi tên địa phương cấp biển và số với chữ số đầu là 5 hoặc 7.
    • Hạng phổ thông: lớn hơn hạng nhỏ. Biển số có ghi tên địa phương cấp biển và số với chữ số đầu là 3.

Theo tạp chí chuyên ngành và các nhà chế tạo ô tô

  • Hatchback:
    • Hạng mini (minika)
    • Hạng nhỏ (kompakutoka): dưới 1800cc. Ví dụ: Toyota Vitz/Toyota Yaris), Honda Fit/Honda Jazz, Nissan Match/Nissan Micra, Mazda Demio/Mazda2, Mitsubishi Colt, Suzuki Swift, Toyota Auris, Nissan Note, Nissan Tiida, Toyota Passo/Daihatsu Boon, Chevrolet Spark
  • Sedan/station wagon:
    • Hạng đại chúng (taishusha): dung tích khí thải của động cơ dưới 1800cc. Ví dụ: Toyota Corolla, Nissan Tiida Latio, Honda Insight, Honda Civic, Toyota Yaris (loại sedan)/Toyota Vios, Mazda Axela/Mazda3, Subaru Impreza, Nissan Wingroad, Honda Airwave.
    • Hạng trung (midoruka): dưới 2400cc. Ví dụ: Lexus HS250H/Toyota Sai, Honda Accord, Mazda Atenza/Mazda6, Subaru Legacy, Suzuki Kizashi.
    • Hạng lớn (haionaka): từ 2400 cc trở lên, động cơ V6. Ví dụ: Toyota Crown, Toyota Mark X, Nissan Fuga, Nissan Skyline, Honda Inspire, Honda Legend.
  • Minivan (miniban):
    • Hạng nhỏ (S saizu): dưới 1500 cc. Ví dụ: Toyota Sienta, Honda Freed, Daihatsu Boon Luminas, Toyota Passo Sette.
    • Hạng trung (M saizu): dưới 2000 cc. Ví dụ: Nissan Serena, Toyota Noah, Toyota Voxy, Honda Station Wagon, Nissan Lafesta, Honda Stream, Mazda Premacy.
    • Hạng lớn (L saizu): từ 2000 cc trở lên. Các loại xe gia đình đa dụng được Nhật Bản phân vào loại này. Ví dụ: Toyota Estima, Toyota Alphard, Toyota Vellfire, Nissan Elgrand, Honda Odyssey, Honda Elysion.
  • SUV/crossover:
    • Hạng mini: như Suzuki Jimny, Mitsubishi Pajero Mini
    • Hạng nhỏ: dưới 1800 cc. Loại này của Nhật Bản tương đương với hạng SUV mini của Hoa Kỳ. Ví dụ: Daihatsu Be-go, Toyota Rush, Suzuki Jimny Sierra.
    • Hạng trung: dưới 2400 cc. Loại này của Nhật Bản tương đương với loại SUV nhỏ của Hoa Kỳ. Ví dụ: Suzuki Escudo, Toyota RAV4, Nissan X-Trail, Honda CR-V, Mitsubishi Outlander, Subaru Forester.
    • Hạng lớn: trên 2400 cc. Ví dụ: Toyota Land Cruiser, Toyota Land Cruiser Prado, Mitsubishi Pajero, Lexus RX, Nissan Murano.

Ở EU

Ở EU, Ủy ban châu Âu phân loại xe thành các hạng (segment) A, B, C, D, E, F, S, M, J.

A là hạng xe mini, B là xe hạng nhỏ, C là xe hạng trung (nhưng tương đương với hạng nhỏ của Hoa Kỳ), D là xe hạng lớn (nhưng tương đương với hạng trung của Hoa Kỳ), E là hạng executive (tương đương với hạng lớn và hạng chớm sang của Hoa Kỳ), F là hạng xe sang (tương đương với hạng sang cỡ lớn của Hoa Kỳ), S là hạng thể thao, M là hạng gia đình đa dụng (tương đương minivan hạng nhỏ của Hoa Kỳ), J là hạng thể thao đa dụng (tương đương với các loại SUV của Hoa Kỳ).

Trong khi đó Chương trình đánh giá xe mới của châu Âu (Euro NCAP) phân loại xe thành các hạng siêu mini (tương đương hạng A và B của Ủy ban châu Âu), hạng xe gia đình loại nhỏ (tương đương hạng C), loại xe gia đình hạng lớn (tương đương hạng D), loại Executive, loại xe gia đình đa dụng hạng nhỏ, xe gia đình đa dụng hạng lớn (tương đương loại minivan của Hoa Kỳ), xe địa hình 4x4 hạng nhỏ (tương đương SUV mini và SUV nhỏ của Hoa Kỳ), xe địa hình 4x4 hạng lớn (tương đương SUV hạng trung và SUV lớn của Hoa Kỳ), hạng bán tải bán (không chia thành các cỡ bán tải khác nhau như ở Hoa Kỳ).

Các loại khác

  • Coupe: Từ thông dụng chỉ kiểu xe thể thao hai cửa bốn chỗ mui cứng.
  • Roadster: Kiểu xe hai cửa, mui trần và chỉ có 2 chỗ ngồi.
  • Convertibles hay cabriolet, cabrios (ở Đức): Thường là loại xe thể thao có mui xếp hoặc mui trần.
  • Hard-top: Kiểu xe mui kim loại cứng không có khung đứng giữa 2 cửa trước và sau
  • Crossover hay CUV, chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Crossover Utility Vehicle”: Loại xe việt dã có gầm khá cao nhưng trọng tâm xe lại thấp vì là biến thể của xe sedan gầm thấp sát-xi liền khối và xe việt dã sát xi rời. Dòng xe này có gầm cao để vượt địa hình nhưng khả năng vận hành trên đường trường tương đối giống xe gầm thấp. Ví dụ: Hyundai Santa Fe, Chevrolet Captiva…vv.
  • Sedan: Sedan là dòng ô tô có 4-5 chỗ ngồi, kết cấu gồm 3 khoang: Khoang động cơ phía trước, khoang hành khách ( có 2 hàng ghế) ở giữa và khoang hành lý phía sau, gầm xe thấp ( không cao hơn 200mm).

Chú thích

Collection James Bond 007

Tham khảo


Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Phân loại ô tô by Wikipedia (Historical)


Need for Speed: World


Need for Speed: World


Need for Speed: World (tên trước đây là Need for Speed: World Online) là trò chơi điện tử đua xe thế giới mở online. Đây là dòng game thứ 15 trong series đua xe nổi tiếng Need for Speed, được phát hành bởi Electronic Arts. Trò chơi được đồng phát triển bởi Quicklime Games và EA Singapore. Nó là trò chơi trực tuyến nhiều người chơi đầu tiên của Need for Speed (mặc dù Motor City Online cũng đã được cho là một trò chơi của dòng game này) và nó chỉ được phát hành cho nền tảng Windows trên PC. World được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 27 tháng 7 năm 2010. Tuy vậy, những người đã đặt mua Need for Speed: World Starter Pack sẽ có cơ hội được trải nghiệm trò chơi ở một thời điểm sớm hơn, vào ngày 20 tháng 7 năm 2010.]

Need for Speed: World đã chính thức đóng cửa server vào ngày 14 tháng 7 Năm 2015, cùng với những loại game chơi miễn phí của EA khác như: Battlefield Play4Free, Battlefield HerosFIFA World.

Cách chơi

Cách chơi của World dựa trên phong cách chơi của Most WantedCarbon, tập trung vào những cuộc đua bất hợp pháp, việc độ xe và những cuộc truy đuổi của cảnh sát, bên cạnh đó là những công cụ kiếm tiền qua mạng. Bối cảnh của World được đặt trong hai thành phố Rockport (của Most Wanted) và Palmont (của Carbon). Có 34 chiếc xe khác nhau xuất hiện trong trò chơi.

Thời gian vừa qua, nhà sản xuất đã dần cung cấp những tính năng cho người chơi. Tháng 12 năm 2010, việc độ máy xe (Performance Customization) đã được cung cấp để sử dụng và ngày 16 tháng 3 năm 2011 là độ diện mạo (Visual Customization). Ngày 31 tháng 3 năm 2011, trò chơi giới thiệu chế độ chơi mới có tên là "Team Escape", một phiên bản đòi hỏi hợp tác giữa các người chơi, trong đó bốn người chơi phải phối hợp với nhau như một đội để đi từ điểm A đến điểm B trong khi phải tránh một lượng lớn xe cảnh sát. Hai tùy chọn bổ sung cho chế độ này đã được phát hành.

Trước ngày 8 tháng 9 năm 2010, sau khi chơi đến level 10, người chơi sẽ không thể chơi tiếp nữa mà phải dừng lại. Để có thể tiếp tục chơi, người chơi buộc phải mua Need for Speed World Starter Pack. Nếu không mua nó, người chơi có thể chơi bao lâu tùy thích, nhưng sẽ bị giới hạn. Ngày 8 tháng 9 năm 2010, World đã có 1 triệu lượt đăng ký. Để ăn mừng điều này, trò chơi đã cho phép chơi miễn phí và những giới hạn đã bị gỡ bỏ.

Phát triển

World là một trò chơi miễn phí. Vào tháng 10 năm 2009, World đã phát hành bản chơi thử (beta) có giới hạn cho thị trường Đài Loan. Tổng cộng đã có bảy bản close beta được phát hành. Nếu không tính bản đầu tiên thì tất cả các bản closed beta đều được phát hành trên toàn thế giới dành cho những người đã đăng nhập, đáp ứng tiên chuẩn, và được cho phép.

Một bản open beta đã được phát hành vào 10 giờ sáng tại múi giờ GMT -7, ngày 2 tháng 7 năm 2010. Bản chơi thử này dự tính sẽ bị dừng phát hành vào ngày 6 tháng 7 năm 2010 nhưng thực tế đến ngày 9 tháng 7 năm 2010 mới bị dừng. Một cuộc kiểm tra phần cứng đã được thực hiện từ ngày 13 đến ngày 14 tháng 7 năm 2010.

Những người đã mua bản mở đầu đều có thể thưởng thức trò chơi một tuần trước khi phiên bản chính thức được phát hành. Những người không mua phiên bản mở đầu sẽ chính thức được chơi vào ngày 27 tháng 7 năm 2010.

Xe

Những chiếc được gạch chân là những chiếc không miễn phí và phải mua bằng tiền thật. Một số chiếc tuy là miễn phí nhưng một số màu sơn của nó thì phải mua tại SpeedBoost.

Chú ý: Chiếc xe Audi A1 clubsport quattro Concept chỉ miễn phí từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 6 năm 2011.

Bậc 1 (9 chiếc):
1971 Dodge Challenger R/T
1969 Dodge Charger R/T
2007 Mazda Mazdaspeed3
2005 Mitsubishi Eclipse GT
1992 Nissan 240SX
2000 Nissan Silvia S15
1965 Pontiac GTO (Juggernaut available)
1986 Toyota Corolla AE86
2008 Volkswagen Scirocco

Bậc 2 (19 chiếc):
2009 Audi TT RS Coupe
2009 Audi S5
2011 Audi A1 Clubsport quattro Concept
2008 BMW Z4 M Coupe
2008 BMW 135i Coupe
2008 Dodge Charger SRT8 Super Bee
1996 Ford Escort RS Cosworth
2009 Lexus IS-F
2006 Lotus Elise 111R
1995 Mazda RX-7
2006 Mitsubishi Lancer Evolution IX MR-Edition
2008 Mitsubishi Lancer Evolution X
2003 Nissan 350Z (Z33)
2009 Nissan 370Z (Z34)
1999 Nissan Skyline GT-R R34
2007 Porsche Cayman S
2006 Subaru Impreza WRX STi
1998 Toyota Supra
2005 Volkswagen Golf R32 (Mk5)

Bậc 3 (10 chiếc):
2008 Audi R8 4.2 FSi quattro
2001 BMW M3 GTR (E46)
2008 BMW M3 E92
2006 Chevrolet Corvette Z06
2006 Dodge Viper SRT-10
2006 Ford GT
2008 Lamborghini Gallardo LP560-4
2010 Lamborghini Murciélago LP640
2008 Nissan GT-R (R35)
2006 Porsche 911 Turbo (997 TT)

Đóng cửa mạng

Vào ngày 15 tháng 5 năm 2015, Electronic Art đã công bố rằng Trò chơi này sẽ chính thức tắt Server vào ngày 14 tháng 7 năm 2015. Sau 5 năm phát hành và phát triển cho các game thủ trải nghiệm, nhà sản xuất cảm thấy rằng game này không thể nào đạt các tiêu chuẩn cao so với các game của hãng Need for Speed hiện nay. Chức năng mua SpeedBoost bằng tiền thật và tạo tài khoản mới trong game (trừ khi tạo tài khoản tại Origin) đã bị gỡ bỏ kể từ ngày công bố.

Hiện nay, một số game thủ có thể chơi trò chơi này trong Offline qua những phần mềm phức tạp cần phải cài đặt. Tuy nhiên, thỉnh thoảng trò chơi dễ bị crash hoặc ko phản hồi.

Đón nhận

Need for Speed: World nhận được những đánh giá trái chiều từ những nhà chuyên môn. GameRankings cho trò chơi số điểm 62.14% trong khi số điểm của Metacritic là 62.

Những lời khen ngợi đến nhiều nhất từ GamingXP, họ đã nói rằng "Trò chơi trông giống như một sự kết hợp của các trò chơi Need for Speed trước ngoại trừ việc chế độ chơi đơn đã bị dỡ bỏ. Người ta thêm vào vài vai chơi mới và bạn đã có một cuộc đua kiếm tiền trên mạng".

PC Format đưa ra một đánh giá có ý chê bai trên số báo tháng 10 năm 2010 của họ và kết luận rằng trò chơi "như một cơ hội bị bỏ lỡ". Eurogamer bình luận rằng "Thật sự xấu hổ khi yếu tố kiếm tiền của World rõ ràng là một yếu tố phức tạp và không cần thiết".

Collection James Bond 007

Tham khảo

Liên kết ngoài

  • Website chính thức

Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Need for Speed: World by Wikipedia (Historical)


Need for Speed: Nitro


Need for Speed: Nitro


Need for Speed: Nitro là video game đua xe phiên bản thứ 14 của dòng Need for Speed. Nó được phát hành bởi Electronic Arts dành cho nền tảng Wii và Nintendo DS, nó là game đầu tiên trong series không dành cho PC. Nó được công bố vào tháng 1 như là một phần của 3-game được công bố trong đó có Need for Speed: Shift và Need for Speed: World. Game được phát triển bởi EA Montreal, hãng này đã có kinh nghiệm trong việc phát triển các game thuộc nền tảng Nintendo, mặc dù phiên bản DS được phát triển một cách riêng lẻ bởi một hãng ở Florida là Firebrand Games. Một phiên bản cải tiến của phiên bản DS, Need for Speed: Nitro-X, được tung ra vào tháng 11 năm 2010 bởi DSiWare.

Lối chơi

Need for Speed: Nitro là một game đua xe mang phong cách arcade nhấn mạnh tốc độ và sự hứng thú hơn là sự thực tế. Phiên bản Wii cho phép tối đa 4 người chơi điều khiển 4/8 xe đua cùng một lúc, trong một cuộc đua Drag thì cho phép tối đa 4 xe đua tham gia.

Chế độ

Có nhiều chế độ đua khác nhau, cụ thể là circuits, team circuits, elimination races, drift challenges, speed trap challenges, drag challenges và time attacks. Chế độ Career cho phép người chơi tham gia một số giải cup và hoàn thành một bảng nhiệm vụ, Trong khi chế độ Arcade lập tức đưa người chơi vào một cuộc đua với độ khó cũng như điều kiện đua đã được điều chỉnh. Trong cuộc đua, cảnh sát sẽ cố gắng cản trở và gây thiệt hại, điều này khiến tốc độ và số lượng nitro có sẵn của xe người chơi bị giảm. Cảnh sát không có mặt trong cuộc đua drag. Biểu tượng power-up có mặt trong cuộc đua, nó giúp sửa chữa những hư hỏng một cách nhanh chóng và tăng mức heat-level. Trong một cuộc đua, người chơi sẽ được trao tặng "style points", dựa trên khả năng thực hiện powerslides và drafting, và mức nạp nitro theo thời gian. Có một nitro nhỏ và một nitro mạnh mẽ giống như phiên bản Need for Speed: Hot Pursuit dành cho Wii.

Own It

Game có một tính năng được gọi là "Own It"; trong khi một chiếc xe dẫn đầu, khung cảnh xung quanh, những tòa nhà và vạch kẻ đường sẽ có màu trùng với màu của chiếc xe đó, và được trang trí bằng tranh Graffiti, và tags giống như của xe, tất cả những điều này đều có thể được tạo ra với hệ thống điều chỉnh mới của game. "Own it" là một cách thuận tiện để nhận biết được người dẫn đầu một cuộc đua, và người chơi sẽ nhận được "style point" nếu về đích đầu tiên.

Đường đua

5 thành phố có mặt trong trò chơi là Rio de Janeiro, Cairo, Madrid, Singapore, và Dubai (và San Diego trong phiên bản DS). Mỗi thành phố có 2 đường đua vòng, một đường dành cho cuộc đua drag, và giành các đoạn của một đường dành cho các cuộc đua time trial, speed trap, và drift events. Hai đường đua vòng ở Dubai Palm Jumeirah (đảo cây cọ) và Dubai Marina. Đường đua drag hầu như theo một đường thẳng. Tại Dubai, Burj Khalifa, Burj Al Arab, và Jumeirah Beach Hotel có thể được quan sát khi đua. Tại Singapore, cuộc đua diễn ra trong hoàng hôn. Ở các thành phố còn lại, cuộc đua diễn ra trong ngày.

Xe

Có 30 chiếc xe có mặt trong phiên bản dành cho Nintendo Wii. Và chúng được phân ra làm 3 lớp xe. Lớp "C" là những chiếc xe dành cho gia đình như chiếc Renault 4. Chiếc Tesla Roadster, một chiếc xe điện, cũng nằm trong lớp "C". Lớp "B" là những chiếc xe có hiệu suất cao như chiêc Ford Escort RS Cosworth và Nissan Skyline GT-R. Lớp cuối cùng, "A", là những siêu xe, như chiếc Ford GT và Nissan GT-R. Ngoài ra cũng có 3 chiếc SUV không được công bố nhưng cũng có sẵn trong trò chơi này, chúng là Porsche Cayenne Turbo S (lớp "B"), Hummer H2 SUT và Ford Explorer Sport Trac Adrenalin (lớp "C").

Dưới đây là danh sách những chiếc xe có trong Need for Speed: Nitro:

Exotic

  • Audi R8 (A)
  • Ford GT (A)
  • Lamborghini Gallardo LP 560-4 (A)
  • Lamborghini Reventón (A)
  • Pagani Zonda R (A)
  • Porsche 911 GT3 RS (A)
  • Porsche Cayman S (B)
  • Nissan GT-R (A)

Tuner

  • Audi TT RS (class A)
  • Ford Escort RS Cosworth (B)
  • Mitsubishi Lancer Evolution (B)
  • Nissan 370Z (Z34) (cB)
  • Nissan Skyline (B)
  • Subaru Impreza WRX STI (B)
  • Toyota Corolla (C)

Muscle

  • Chevrolet Camaro (C)
  • Chevrolet Corvette C3 (B)
  • Chevrolet Corvette C6 ZR1 (A)
  • Dodge Challenger (A)
  • Dodge Charger R/T (B)
  • Ford Shelby GT500 (2010) (A)
  • Shelby GT500 (1967) (B)

Electric

  • Tesla Roadster (class C)

Family

  • Ford Explorer Sport Trac Adrenalin (C)
  • Hummer H2 SUT (C)
  • Nissan Cube (C)
  • Porsche Cayenne Turbo S (B)
  • Renault 4L (C)
  • Volkswagen Beetle (C)
  • Volkswagen Type 2 (C)

Những tay đua/nhân vật

Có 35 tay đua có tên trong phiên bản dành cho Wii. Jawad là tay khó đánh bại nhất. Anh ta đến từ Dubai và lái một chiếc Lamborghini Reventón màu đen. Trong một đoạn video Jawad ném tiền vào phía ống quay, tương tự như Eddie trong Need for speed: Underground khi người chơi thua cuộc đua. Anh ta có một bộ râu, ria mép màu đen, kính mát màu cam, chiếc đồng hồ màu bạc, anh ta cũng mang một chiếc Keffiyeh của người Ả Rập. Tay đua giỏi nhất Cairo là Omar. Tay đua giỏi nhất Rio de Janeiro là Thiago. Tay đua giỏi nhất Madrid là Luis. Tay đua giỏi nhất Singapore là Zarinah.

Soundtrack

Có 26 bài trong Need for Speed: Nitro phiên bản dành cho Wii. Một vài nghệ sĩ có mặt trong soundtrack là k-os, Dizzee Rascal, Danko Jones, LMFAO, và Crystal Method.

Dưới đây là danh sách những bài hát có trong Need for Speed: Nitro Wii:

  • Alex Metric - What Now
  • Bloody Beetroots feat. Cool Kids - Awesome
  • Crookers feat. Wiley and Thomas Jules - Business Man
  • Crystal Method feat. LMFAO - Sine Language
  • Danko Jones - Code Of The Road
  • Dizzee Rascal and Armand Van Helden - Bonkers
  • Drumagik - Make It Rock
  • Earl Greyhound - Oye Vaya
  • edIT feat. Wale and Tre’ - Freaxxx
  • Evil 9 - All The Cash (Alex Metric Remix) Feat. El-P
  • Hollywood Holt - Can't Stop
  • k-os - FUN!
  • Lady Sovereign - I Got You Dancing
  • Major Lazer feat. Mr.Lex & Santigold - Hold The Line
  • Matt & Kim - Daylight (Troublemaker Remix)
  • Mickey Factz - Yeah Yeah
  • Pint Shot Riot - Not Thinking Straight
  • Placebo - Breathe Under Water
  • Rise Against - Kotov Syndrome
  • Roots Manuva - Buff Nuff
  • Rye Rye - Hardcore Girls
  • Street Sweeper Social Club - Fight! Smash! Win!
  • Taking Back Sunday - Lonely Lonely
  • The Enemy - No Time For Tears
  • The Gay Blades - O Shot (Dmerit Remix)
  • Two Fingers feat. Sway DaSafo - Jewels And Gems

Đánh giá

Need for Speed: Nitro nhận được nhiều lời đánh giá khác nhau sau khi được tung ra. Mark Bozon của IGN xếp điểm 8.0 trên 10 cho phiên bản Wii, ông nói rằng "Nitro là một vụ nổ bất chấp một vài lỗi lầm". Mặc dù 1Up thích cái tên, họ vẫn chỉ trích campaign của trò chơi, xếp hạng B-. Eurogamer ít cảm thấy ấn tượng, và xếp điểm 5 trên 10, nói rằng các nhiệm vụ căng thẳng lặp đi lặp lại khiến nó mất đi sự hứng thú. Mặc dù vậy, Eurogamer đánh giá cao sự sáng tạo trong việc sử dụng thay đổi cấp độ khó tùy thuộc vào sự xuất hiện xe của người chơi. Official Nintendo Magazine đưa ra một đánh giá tích cực hơn, đánh giá 80% và nói rằng; "Need For Speed: Nitro không làm bất cứ điều gì đáng chú ý. Nó không quảng cáo như những trò chơi trước, nó không có các hiệu ứng hình ảnh quá đặc biệt có thể cuốn bạn đi, và nó không cung cấp online multiplayer gameplay để có những người bạn chơi cùng trong nhiều năm tới. Đó là chỉ đơn giản là vui vẻ để chơi, và tập trung vào chất lượng hơn số lượng, EA đã quản lý để đặt lại với nhau một trong những trò chơi đua xe hay nhất trên Wii. "

Tham khảo

Collection James Bond 007


Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Need for Speed: Nitro by Wikipedia (Historical)


Need for Speed Payback


Need for Speed Payback


Need for Speed Payback là một trò chơi điện tử đua xe thế giới mở và là phần thứ 23 thuộc dòng game sê-ri đua xe Need for Speed, được phát triển bởi Ghost Games (Nay là EA Gothenburg) và phát hành bởi Electronic Arts. Trò chơi phát hành toàn cầu vào ngày 10 tháng 11 năm 2017 dành cho các nền tảng PS4, Xbox One và Microsoft Windows.

Trò chơi này hoàn toàn loại bỏ một số hệ thống và các cách chơi cũ từ Need for Speed (2015), thay vào đó trò chơi cung cấp thời gian đua Ngày - Đêm (24 giờ), đua các loại xe địa hình và cho phép chơi đơn Offline. Đây là lần đầu tiên Need for Speed cung cấp 3 nhân vật chính trong cốt truyện trò chơi (lấy cảm hứng từ Grand Theft Auto V)

Need for Speed Payback bao gồm 81 siêu xe (tính cả các xe hơi phiên bản DLC và từ Need for Speed 2015) như Aston Martin, Mini, Audi, Koenigsegg, Land Rover,... Tuy nhiên, Payback không có các xe thuộc hãng Toyota hoặc Ferrari vì lí do nhượng quyền.

Payback lấy bối cảnh thành phố chủ đề sòng bạc Fortune Valley (dựa theo thành phố Las Vegas, Nevada). Người chơi nhập vai 3 nhân vật tên là Tyler Morgan, Sean McAlister và Jessica Miller thuộc một đội đua xe tại Silver Rock cùng với sự trợ giúp từ thợ máy Ravindra "Rav" Chaudhry và tay chơi Marcus "The Gambler" Weir nhằm đối đầu Lina Navarro, thành viên đội đua đã phản bội Tyler và làm việc cho The House, một tổ chức tội phạm điều hành thành phố đầy cảnh sát bẩn bị mua chuộc và nắm quyền bởi The Collectors.

Gameplay

Need for Speed ​​Payback là một game đua xe lấy bối cảnh thế giới mở của Fortune Valley; một phiên bản hư cấu của Las Vegas, Nevada. Nó tập trung vào "lái xe hành động" và có ba nhân vật có thể chơi được (mỗi nhân vật có các kỹ năng khác nhau) làm việc cùng nhau để tạo ra các bộ phim hành động như các cảnh. Trái ngược với trò chơi trước, nó cũng có chu kỳ ngày đêm 24 giờ.  Không giống như khởi động lại Need for Speed 2015, Payback bao gồm chế độ chơi đơn ngoại tuyến.

Need for Speed: Payback có tổng cộng 74 xe, với nội dung có thể tải xuống. Toyota, Scion và Ferrari không có trong trò chơi do vấn đề cấp phép. Tuy nhiên, Subaru BRZ xuất hiện trong trò chơi.  Aston Martin, Audi, Buick, Jaguar, Koenigsegg, Land Rover, Mercury, Mini, Pagani và Plymouth trở lại sau khi vắng mặt trong phiên bản 2015, trong khi Alfa Romeo, Infiniti,Mini và Pontiac đã được thêm vào thông qua nội dung có thể tải xuống.

Cốt truyện

Tyler "Ty" Morgan (Jack Derges), Sean "Mac" McAlister (David Ajala) và Jessica "Jess" Miller (Jessica Madsen) là một thành viên của một phi hành đoàn ở Silver Rock, Fortune Valley cùng với người bạn và thợ máy của họ, Ravindra "Rav "Chaudhry (Ramon Tikaram). Sau một cuộc đua thân thiện giữa họ, người quen và người sửa chữa thời thơ ấu của Tyler Lina Navarro (Dominique Tipper) đến, với một công việc cho họ: đánh cắp một Koenigsegg Regera quý giáthuộc về Marcus "The Gambler" Weir với một số công nghệ cao cấp bên trong. Tyler, đóng giả làm tài xế thử nghiệm, đánh cắp thành công chiếc xe và trốn tránh cảnh sát. Tuy nhiên, khi đến điểm rơi, anh ta thấy Rav bị đánh gục. Lina xuất hiện, tiết lộ rằng cô đã thiết lập Tyler và phi hành đoàn của anh ta để té ngã chiếc xe bị đánh cắp và cô lái xe đi, để lại cho họ sự thương xót của lực lượng cảnh sát sắp tới. Tyler dẫn cảnh sát rời khỏi phi hành đoàn của mình và chạy vào The Gambler, người yêu cầu trả lại xe cho anh ta. Khi biết rằng Lina đã phản bội cả hai, Weir tức giận và quyết định để Tyler bị bắt, nhưng anh ta đã thay đổi ý định và yêu cầu anh ta đi cùng để anh ta có thể được bảo vệ khỏi bị bắt.

Sáu tháng sau, Tyler đang làm việc như một người phục vụ cho Weir. Khi anh ta giao xe đến sòng bạc của mình, Tyler phát hiện Lina đe dọa Weir giao lại sòng bạc cho The House, một băng đảng kiểm soát thế giới ngầm của Fortune Valley. Tyler cân nhắc việc theo đuổi cô, nhưng Weir khuyên anh nên tạm biệt thời gian của mình. Thất vọng vì thiếu tiến bộ, anh quyết định đưa vấn đề vào tay mình. Liên lạc với The House với tư cách là một tay đua, anh tham gia một cuộc đua và giành chiến thắng, mặc dù Lina đã gian lận cuộc đua vì lợi nhuận. Lina cố gắng đưa anh ta ra ngoài, nhưng không thành công.

Weir đề xuất Tyler một cách để hạ bệ The House và Lina cùng với nó. Tyler sẽ tham gia và giành chiến thắng "The Outlaw's Rush", một sự kiện đua xe đường phố lớn có các tay đua hàng đầu quốc gia tham gia, mà The House dự định sẽ tự khắc phục cho mục đích của mình. Lúc đầu Tyler từ chối, nhưng khi ngôi nhà của anh bị Lina thổi bay như một lời cảnh báo, anh quyết định chấp nhận lời đề nghị của Weir và đưa đoàn của anh trở lại với nhau.

Kể từ khi nhiệm vụ thất bại, Mac đã chạm đáy đá và đồng ý dạy cho người nổi tiếng trên Internet "HashTiger" cách trôi dạt. Rav đã quyết định trở thành một thợ cơ khí hợp pháp, và chính cô ấy, kể từ khi làm việc, giờ đây cô ấy hoạt động như một tài xế chạy trốn cho tên tội phạm Silver Rock. Tuy nhiên, họ đồng ý gặp và nghe kế hoạch của Tyler về việc đánh sập Nhà.

Để tham gia Rush của The Outlaw, Tyler và Mac phải tham gia các giải đấu đường phố ở Fortune Valley để được chấp nhận vào cuộc đua. Trong khi đó, Jess thực hiện một số hộ tống và chuyển phát nhanh trong Nhà cho một người phụ nữ chỉ được biết đến là Người môi giới. Tyler tiếp tục và chiến thắng trước La Catrina và giải đấu của cô, Graveyard Shift, trong khi Mac thách thức và chiến thắng trước Udo Roth và League 73 của anh. Sau đó, họ có cơ hội thực hiện một vụ trộm, lấy lại Koenigsegg của Weir và giao lại cho anh ta.

Tyler và Mac sau đó thách đấu hai giải đấu, Big Sister và liên minh của cô, Câu lạc bộ bạo loạn, và Người lính ngầm và liên minh của anh, Shift Lock. Jess phát hiện ra rằng Lina đang trả tiền cho cảnh sát và các tay đua để đấu thầu bất cứ khi nào cô ấy yêu cầu và biết rằng cô ấy và phi hành đoàn có mặt trong danh sách theo dõi của cảnh sát và Nhà. Cô cũng phát hiện ra rằng họ đang lên kế hoạch mang một thứ gì đó vào thành phố có tên Skyhammer và nó sẽ sớm hoạt động.

Sau đó, Tyler được La Catrina liên lạc để tái đấu, nhưng khi tới đó, anh cũng tìm thấy Mac và Jess ở đó, những người được gọi đến đó với những cái cớ khác nhau. Nhận ra họ đã được Navarro thiết lập, cả ba bị cảnh sát truy đuổi. Trong cuộc rượt đuổi, Skyhammer được tiết lộ là một killswitch EMP được đặt trên trực thăng truy đuổi, khi được kích hoạt, có khả năng làm chậm một chiếc xe hơi hoặc bất động nếu tập trung trong thời gian dài. Cả ba cố gắng hạ gục trực thăng và thoát khỏi cảnh sát.

Bị lưu đày một lần nữa bởi The House, Tyler và Mac tiếp tục hành trình tìm kiếm đồng minh chống lại The House bằng cách tham gia thêm ba giải đấu: The Silver Six, dẫn đầu bởi người bạn thời thơ ấu của Tyler "Gallo" Rivera, Noise Bomb, do Aki Kimura lãnh đạo (ban đầu từ Need for Speed: ProStreet) và Free Ember Militia, dẫn đầu bởi Faith Jones.

Jess, hiện đang ở trong Nhà, tiếp tục tập hợp thông tin của mình về các hoạt động của Nhà cho Người môi giới. Cô biết được hai chiếc xe mạ vàng, một chiếc Mercedes-Benz G-Class và Lamborghini Aventador, được trang bị công nghệ bất hợp pháp mà The Collector, người đứng đầu The House, đang trưng bày và lên kế hoạch đánh cắp chúng với Tyler và Mac. Tuy nhiên, Navarro và The Collector đã lường trước điều này và ném bom vào những chiếc xe hơi. Với cảnh sát đang truy lùng ráo riết, Mac, Tyler và Rav vận chuyển những chiếc xe ra khỏi thị trấn bằng một chiếc xe tải bán. Sau khi phá vỡ một số vật cản đường, Tyler và Rav đã tìm cách tháo bom và ném chúng vào những chiếc xe cảnh sát đang truy đuổi, đảm bảo cho họ trốn thoát.

Jess, trở lại bí mật, tìm hiểu thêm về các hoạt động của Nhà với sự giúp đỡ của Người lính ngầm, người sẽ chui xuống khi vỏ bọc của anh ta bị thổi bay. Tuy nhiên, Jess quản lý để lấy dữ liệu cho The Broker, nơi cô học được The Collector chỉ là một con tốt và của một thứ gọi là Arkwright. Trong khi đó, Tyler và Mac chạy đua với ba giải đấu cuối cùng: Khối kim cương của Mitko Vasilev, Công ty Hazard của Holtzman và Câu lạc bộ Một phần trăm của Natalia "SuperNova" Nova, tất cả đều thuộc biên chế của Nhà. Sau khi giành chiến thắng, Tyler và phi hành đoàn của mình biết rằng họ đã thành công trong The Outlaw's Rush.

Biết rằng Navarro sẽ làm bất cứ điều gì để đảm bảo rằng họ không giành chiến thắng, Rav trang bị cho những chiếc xe những biện pháp đối phó ngăn họ khỏi bị giết bởi những kẻ giết người, cũng đã được thiết lập trên một số xe cảnh sát. Tyler quyết định chạy cả đường đua và đường đua. Trong chặng đường, Navarro gửi các ông chủ giải đấu theo bảng lương của cô để ngăn chặn anh ta, nhưng tất cả đều thất bại. Trong chặng đường địa hình, Navarro phải gửi cảnh sát theo Tyler, nhưng tất cả các phi hành đoàn mà anh và Mac đã giành được khi các đồng minh can thiệp bằng cách tạo ra nhiều phiền nhiễu trên Thung lũng Fortune, để tiêu diệt cảnh sát, cũng như hạ gục các đơn vị Tyler.

Không còn lựa chọn nào khác, Navarro quyết định chạy đua với chính Tyler. Trong cuộc đua, The Collector gọi và đề nghị Tyler thay thế Navarro làm trung úy bằng cách thuyết phục anh ta thua cuộc đua, nhưng anh ta từ chối. Cuối cùng Tyler thắng Rush của The Outlaw cho Silver Rock. Sau đó Navarro lái xe đi và The Collector gọi cô ấy để nói rằng cô ấy đã hoàn thành công việc cho anh ta và cuối cùng bị bao vây bởi những tên côn đồ The Collector trong khi The Collector lái xe đi. Trò chơi kết thúc với việc phi hành đoàn quyết định đua nhau về nhà.

Trong một cảnh hậu tín dụng, ông Kobashi, một khách hàng mà Jess đã lái xe, gọi cho Weir và nói với anh ta rằng canh bạc của anh ta đã hoạt động, và The Collector đã kết thúc. Anh ta chào đón Weir đến Arkwright đã nói ở trên và Weir cúp máy, hài lòng.

Đón nhận

Trò chơi nhận những lời đánh giá trái chiều từ khán giả và các nhà phê bình game.

Luke Reilly từ IGN đề cao EA đã sửa lại yếu tố cốt lõi game nhưng phê bình về các vấn đề của game (cốt truyện lỏng lẻo, xe khó điều khiển, thiếu chức năng xe cảnh sát tuần tra "free-roam cops" trên các đường phố, các nhiệm vụ bị cảnh sát rượt đuổi chỉ xảy ra ngắn hạn, thiếu chức năng hư hại xe thực tế, tính năng mua vật phẩm hộp "Lootbox" trong game,...)

PC World cho rằng game NFS Payback chứa nhiều tính năng dịch vụ giao dịch mua vật phẩm ảo bằng tiền thật, phê bình game thiếu camera nhìn từ bên trong ô tô, sự giới hạn độ phụ tùng cho các xe hơi và họ so sánh game không hay bằng game Forza Horizon.


Tham khảo

Collection James Bond 007


Text submitted to CC-BY-SA license. Source: Need for Speed Payback by Wikipedia (Historical)


ghbass